Kính Chào Qúy Vị Đến Diễn Đàn Hội Thánh Phục Quyền.

Thông báo
Làm sạch tất cả

ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC- MỘT NHÂN CÁCH CAO QUÝ

Thanh Tam
(@thanh-tam)
Thành Viên
Tiềm Tàng Thời Thơ Ấu của Đức Phạm Hộ Pháp.
 
Nguyên nhân Đức Ngài đã có dấu ấn khởi đầu nhập thế, thể lực trưởng thành của Ngài vẫn như nhân loại, về trạng thái sống hầu như một báo hiệu chuẩn bị đổi thay thể xác cho phù hợp với thiên tính. Từ đó Ngài tiếp nhận tiếng gọi Thiêng Liêng chỉ lối thông công vào môi trường thiếp ngủ 24 giờ liền và sau đó sự thiếp ngủ bất bình thường tạo thành một khả lực cứu rỗi kỳ diệu.
 
Ảnh thời Thơ Ấu của Đức Phạm Hộ Pháp.
 
MỘT ĐÊM VỀ TRỜI
 
Đêm 21/02/1907 (Âl; 15-01 Ðinh Mùi ). Trở lại năm 1907. Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, nằm nghỉ trên bộ sập gỗ, dùng làm kệ bán hàng của cô em gái, ở trước hiên nhà. Nhìn cảnh thiên nhiên tươi đẹp hiện về đêm Xuân, gió mát trăng thanh. Đức Ngài lắng nghe tiếng gọi nội tâm trong lòng Trời không gian quang đãng. Nhìn ánh trăng hư ảo, tâm hồn phiêu diêu, đang vân du viếng cảnh Ngôi xưa. Đức Ngài sực nhớ đến một bài thơ đã in sâu vào tâm khảm, hiển hiện tiền kiếp xa xưa. Nay tâm hồn hội nhập thiên cảnh, như ai đó thôi thúc Đức Phạm Công Tắc đến nhận sứ mạng, chuẩn bị khởi đầu cho một huyền diệu "thay da đổi thịt", nhằm làm đẹp thế gian. Đức Ngài say mê nhìn trăng đắm đuối, tâm trí hoàn toàn bị thu hút, bởi ánh sáng hào quang rực rỡ trào dâng, giữa khung TRỜI, chiếu tỏa ra khắp mọi hướng xa gần. Đức Ngài cảm xúc tự vận vần thơ, thân gửi miền nhập pháp vi diệu:
 
THẦN ĐỒNG VẤN NGUYỆT
 
" Thu thiên dạ thanh quang vận tĩnh,
Chốn lữ đình thức tỉnh canh khuya.
Tai nghe văng vẳng bốn bề,
Gương Nga vằng vặc dựa kề quế lan.
Thấy trăng thêm động lòng vàng,
Ngâm câu vấn nguyệt cho đang mấy lời.
Hỏi dì Nguyệt mấy lời sau trước:
Duyên cớ sao mà được thảnh thơi?
Nguyệt rằng: vật đổi sao dời,
Thân này trời để cho người soi chung.
Làm cho mỏi mệt anh hùng,
Ngàn thu sương tuyết một lòng thanh quang.
Hỏi dì Nguyệt có đàng lên tới,
Chốn thiềm cung phỏng mấy mươi xa?
Nguyệt rằng ta lại biết ta,
Có cây đơn quế ấy là nhà em.
Anh hùng thử đến nhà xem,
Kìa gương Ngọc thỏ nọ rèm thủy tinh.
Hỏi dì Nguyệt có tinh chăng tá?
Chữ xuân thu phỏng đã nhường bao?
Nguyệt rằng: yếu liễu thơ đào,
Càng lên càng tỏ, càng cao càng tròn.
Gương Nga vằng vặc chẳng mòn,
Bao nhiêu tinh đẩu là con cái nhà.
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử:
Buổi vân lôi ai giữ kinh luân?
Ta rằng: có đấng Thánh quân,
Ra tay dẹp loạn, nên thân trị bình.
Nguyệt hỏi ta ngẩn ngơ, ngơ ngẩn,
Ta hỏi nguyệt thơ thẩn, thẩn thơ.
Liễu qua trước gió phất phơ,
Hương đưa bát ngát, phòng thơ ngọt ngào."
 
Tiếng ngâm thơ của Đức Ngài vang vọng ngoài cung quảng hàn, lay động chân dung ánh trăng khuya cao quý đậm nét anh hằng. Trăng chuyển động theo gió nhẹ mây trôi qua bờ liễu dồn dập, trằng lúc tỏ, lu mờ, ẩn, hiện, lúc gần, lúc xa, liên tiếp sống động, như con sóng đan nhau ập vào bờ, những đợt sóng cứ thế vận hành tự nhiên, theo định luật Trời đất phú ban.
 
Tâm hồn Đức Ngài lâng lâng nhẹ nhàng như mọc cánh bay bổng trên chính tầng thinh không, cùng với âm thanh ngâm trầm bổng của giọng thơ cung bậc trầm bổng êm đềm, biểu hiện trạng thái cảm xúc, từ nhiều cung bậc khác nhau của cảnh ngoại giới. Một cảm giác tâm vắng lặng buông xuống trầm tư tràn ngập lòng NGƯỜI, những cảm xúc nhẹ nhàng, trải rộng mênh mông vô bờ bến. Đôi mắt Đức Ngài bỗng thiêm thiếp đê mê trong giấc mộng, tâm trí lặng lẽ thiền, cõi thiêng liêng mở ra hướng đi cho chính Người khám phá, vừa suy tư phân tích nguồn khởi cảm của ý trong mộng phiêu lưu kỳ diệu.
 
Đôi mắt của Đức Ngài bừng sáng, thấy một không gian ngoại giới chan hòa, với ánh sáng lung linh, bốn bề tám hướng huyền ảo, bí ẩn, vừa như thực vừa như hư, tạo sức cuốn hút mạnh mẽ, cũng chẳng phải ánh sáng nóng bỏng của hạ giới, ánh sáng lạnh lẽo của mặt trăng hay miền Bắc-Nam cự trái đất. Thế nhưng đây là ánh sáng trắng, nguyên thủy của mặt Trời trong không gian trẻo, có tác dụng gây cảm giác dễ chịu, tác động êm nhẹ hệ giác quan đến tinh thần, vừa bàng bạc khắp cả chung quanh không gian thiêng liêng.
 
Lúc này trí tuệ của Đức Ngài thông thoáng, thân thể mạnh mẽ, những bước đi thong thả, chậm rãi từng bước một trên con đường phẳng phiu trắng tuyết, cảnh thiên nhiên một khung trời sạch sẽ, chẳng có gì vương vấn mảy may bụi trần, trên đường đi thẳng tắp thênh thang, dù chân trời xa vẫn thấy gần. Đức Ngài vừa đi vừa tiếp tục ngâm bài thơ "Thần Đồng Vấn Nguyệt".
 
Bỗng thấp thoáng đằng xa đi lại một bóng người, Đức Ngài im bặt chú ý nhìn. Bóng người tiến lại trông rõ dần… Đang khoảng cách Đức Ngài vài chục thước, hiển hiện một vị sư già, nét mặt vô ngã vô ưu, đức hạnh Từ bi, Bác ái, thân thề hơi gầy khoác y phục cà sa vàng, với những bước chân ngoài "cuộc đời bể khổ". Đức Ngài vừa gặp có vẻ ngơ ngác nhìn.
 
Vị sư già lên tiếng:
 
- Em có nhớ "qua" không?
 
Ngài nhìn lại vị sư, chợt nhớ ra, vội đáp:
 
- Dạ nhớ.
 
Đức Ngài đã gặp vị sư già một lần trước, cách đây hơn mười năm, hồi Đức Ngài mới lên mười tuổi, đương theo học một ông đồ chữ nho, Đức Ngài thường theo hầu thầy đi hốt thuốc, chữa bệnh miễn phí cho tha nhân.
 
Một hôm, ông thầy bảo Đức Ngài cân thuốc trong hiệu khách Đức Vọng ở chợ ngã tư Tây Ninh. Bước vào cửa hàng, Đức Ngài đã thấy, ngồi ở cái kỷ dài đối diện với quầy hàng, vị sư già mặc y phục cà sa vàng, râu tóc bạc phơ, trông thật là tiên phong đạo cốt, làm cho ai nhìn cũng kính mến.
 
Đức Ngài đưa toa cân thuốc, Người chủ tiệm cầm lấy toa tính tiền xong đưa tay chỉ về phía trường kỷ mời Ngài ngồi chơi cùng hai ông khách già.
 
- Được chú để mặc tôi.
 
Đức Ngài đứng yên dựa vào quầy hàng nhìn kỹ, vị sư và ông già. Hai người chỉ chỏ Đức Ngài, rồi nói chuyện với nhau, Đức Ngài lắng tai nghe, biết rằng hai người đang nói chuyện về tướng số, rõ ràng đang luận về tướng của Đức Ngài. Chính Đức Ngài nghe thấy, nay vẫn còn ghi mãi trong ký ức. Lời kết luận của nhà sư: "Cậu bé này vào bậc siêu phàm, sự nghiệp cậu vô cùng cao cả".
 
Nhớ đến chuyện cũ, Đức Ngài đã định hỏi vị sư về quá khứ, hiện tại, cũng như vị lai, Đức Ngài còn đang suy nghĩ đặt câu hỏi, thế nào cho tiện. Vị sư già hình như đã biết ý, mỉm cười kéo tay Đức Ngài, và dạy rằng:
 
- Em suy nghĩ gì đấy? Thôi hãy đi chơi với qua!
 
Đức Ngài "dạ" một tiếng rồi bước theo vị sư như mọi chuyện bình thản tự nhiên. Vị sư thúc dục Đức Ngài bước nhanh lên, ngang hàng để vừa đi vừa đàm đạo cho dễ dàng. Trên con đường trắng phau phau, dưới chân có ánh sáng trong trắng, dịu dàng, rất êm ả, cảm giác dễ chịu, yên tĩnh, không có sự xao động. Vị sư già thuyết cho Đức Ngài nghe về tinh thần bác ái, vị tha của Phật Tổ, khuyên Đức Ngài sau này ráng tu để độ chúng sinh thoát khỏi ách khổ ải của trần gian.
 
Câu chuyện đến đây vừa kết thúc, bỗng đúng lúc Đức Ngài thấy đầu đường phía trước hiện ra một ngôi đền Bạch Ngọc khổng lồ, một màu trắng tinh anh, kiến trúc uy nghi, rực rỡ, và hoành tráng.
 
Khi đứng trước ngôi đền, Vị sư bảo Đức Ngài:
 
- Em chờ qua ngoài này, qua vào Đền một chút nhé!
 
Đức Ngài đứng chờ đợi. Đến lúc năm (5) phút đã trôi qua, kiên nhẫn chờ đợi mười phút (10) nữa, rồi đến nửa giờ (30 phút) cũng trôi qua, vẫn chưa thấy vị sư già trở lại. Đức Ngài lòng dạ bâng khuâng vào Đền gõ cửa, gọi:
 
- Thầy ơi!
 
Cửa vẫn đóng im lìm, không một tiếng trả lời.
 
Đức Ngài tiếp tục gõ cửa, gọi hai ba lần nữa nhưng chỉ có tiếng Ngài vọng lại, mỗi lần lại càng thêm rõ, làm tăng thêm cái vắng lặng của tòa đền đài. Sốt ruột, Đức Ngài đi vòng quanh lâu đài, tìm xem có lối nào vào được chăng. Ngài nhận thấy tòa lâu đài có tám cửa giống hệt như nhau, cửa nào cũng đóng im ỉm. Đức Ngài đi qua mỗi cửa, lại gõ một lần. Vẫn im lặng mênh mang bao trùm cả không gian. Lúc này Đức Ngài cảm thấy hơi lúng túng trước cảnh lạ, định hoay tìm lối cũ về nhà. Đức Ngài định thần, bỗng nhận ra, trước mỗi cửa vào đều có một con đường trắng tuyết chạy về phía chân trời xa. Tám cửa đều giống nhau, tám con đường chẳng khác gì nhau, hướng ra tám phương trời. Đức Ngài tự chọn con đường để đi tới điểm đích như ý. Đức Ngài hồi hộp, lo lắng, chưa hiểu hết sự kết cuộc sẽ thế nào!
 
Giữa lúc băn khoăn. Đức Ngài thấy lập lòe từ xa xa, có bóng đèn sáng rực, Đức Ngài tự suy nghĩ thầm trong bụng: "Chỗ có ánh sáng kia hẳn có nhà. Ta hãy tới hỏi thăm đây là đâu và nhờ hướng dẫn chỉ lối đường về".
 
Đức Ngài nhanh chân bước về hướng con đường phía trước, đi đến ánh đèn. Quả nhiên ở đây có một tòa nhà, cửa cũng khép kín. Ngài đành lấy quyết định, can đảm gõ cửa, hỏi:
 
- Có ai ở trong nhà không?
 
Lại im lìm. Ngài gõ liên tiếp mấy lần nữa. Vẫn im lìm. Đang lúc Đức Ngài không biết phải xử trí thế nào, tự nhiên có tiếng cửa mở, một tiểu đồng hiện ra, đầu để ba chỏm tóc phất phơ, mặt hồng hào, tròn trĩnh dễ thương. Cậu bé bước ra khỏi nhà thì cửa từ từ đóng lại. Cậu chỉ ngay vào mặt Đức Ngài mà nói:
 
- Anh có phải là anh Tắc không?
 
Có thể là hình ảnh về 1 người
 
- Ủa, sao em lại biết qua.
 
Cậu bé mỉm cười như trêu chọc:
 
- Anh thật đớ đẫn! Sao tôi lại không biết! Thầy đợi anh ở trong nhà đấy.
 
Đức Ngài càng ngạc nhiên:
 
- Thầy là ai, hở em?
 
- Rồi anh sẽ biết. Đi vô thôi.
 
Trao đổi được đôi lời, cả hai bước vào trong nhà, cậu bé ngoảnh lại bảo Ngài:
 
- Anh theo tôi nhé!
 
Đức Ngài vâng lời đi theo: Trước mặt một cảnh tượng làm cho Ngài hơi bỡ ngỡ, lúng túng vì quá mới lạ, chưa bao giời thấy kiến trúc đền đài uy nghiêm. Phía trong cửa, có một con Kim Mao Hẩu đang nằm, hai chân trước duỗi thấp xuống, hai chân sau dựng lên cao, mông để sát vào ngưỡng cửa. Chú tiểu đồng thản nhiên leo lên mông con Kim Mao Hẩu trèo qua lưng, rồi đứng lên chân trước con thú dữ, trước khi bước xuống nền nhà.
 
Thấy Đức Ngài ngần ngại không dám tiến bước, chú bé mỉm cười thúc giục:
 
- Có gì mà sợ nó không cắn đâu. Anh cứ theo như tôi, đừng ngại gì cả.
 
Chú bé khuyến khích, Ngài nghe lời, đánh bạo bước lên mông con linh vật một cách e dè, rồi leo xuống lưng của nó, bước xuống bả vai, đôi chân chùng xuống nhảy đại, cả thân người bay ra xa.
 
Chú tiểu đồng thấy thế liếc nhìn Đức Ngài miệng mỉm cười:
 
- Anh nhát quá anh Tắc ạ.
 
Đức Ngài biết chú bé muốn diễu mình, nhưng giả vờ như không biết ngước nhìn chung quanh. Đức Ngài vừa bước qua, cánh cửa tự động đóng lại. Đức Ngài và chú bé đứng trong một hành lang rộng thênh thang. Theo chiều dài hành lang, có năm phòng lớn, mỗi phòng có một cửa, thế nhưng cửa nào cũng đóng kín mít. Hành lang dài rộng, cửa ra vào đều đóng, không có treo đèn mà vẫn sáng, mọi ánh sáng dịu dàng, trong trẻo. Chú tiểu đồng thấy Đức Ngài ngơ ngác nhìn ngắm cảnh lạ, liền kéo tay dẫn đến cửa phòng cuối cùng để Đức Ngài đứng đấy mà dặn:
 
- Anh chờ đây. Lúc nào thầy kêu, tôi sẽ cho anh hay.
 
Nói xong, Chú Tiểu đồng đi vào, cửa vừa mở Tiểu đồng bước qua ngạch cửa liền đóng lại.
 
Đức Ngài đứng một mình chờ đã lâu mỏi chân mà cũng chưa thấy Tiểu đồng trở ra. Đức Ngài nhẫn nại đợi chờ, nếu không nghĩ tới trong hành lang này chẳng phải chỉ có một mình Ngài mà còn có con Kim Mao Hẩu đang nằm. Nếu con vật nổi cơn sinh sự, biết làm thế nào? Lòng ngực của Đức Ngài phập phồng, hồi hộp theo nhịp thở, tay vội gõ cửa:
 
- Em mở cho qua với.
 
Cửa bật mở. Đức Ngài vào, Chú tiểu đồng quắc mắt gắt:
 
- Anh làm chi mà rối lên thế!
 
Thoáng nhìn nét mặt Đức Ngài, hắn dịu giọng ngay:
 
- À! Anh sợ con Kim Mao Hẩu chứ gì! Anh nhát quá. Thôi ở đây mà chờ Thầy.
 
Chú Tiểu nói xong, không để Đức Ngài kịp đáp lại, chú đi ra lối cửa đối diện lúc nãy. Trong phòng vắng lặng chỉ còn lại một mình, lúc này Đức Ngài mới chú ý, ngắm nghía, quan sát cảnh tượng mới lạ chung quanh: Đây là một gian phòng dài đến hai mươi thước, rộng đến mười thước, bốn mặt nền nhà nguyên một khối cẩm thạch liền, phẳng phiu, nhẵn lì, tuyệt đẹp. Giữa phòng, có một chiếc bàn lại có kê một chiếc ghế bành lớn, cũng kiểu như sáu chiếc ghế kia, nhưng cao lớn hơn. Bàn cũng như ghế thiết kế theo thời cổ xưa quá lạ, chưa từng thấy, mặt bàn bằng cẩm thạch, vân ngũ sắc, chân bàn, chân ghế cùng chỗ dựa lưng, dựa tay đều bằng những dây huyền kết lại, vô cùng trang nhã. Đức Ngài ngắm nhìn không chán mắt, bởi những vật dùng này tuyệt phẩm, và trang trí đơn giản nhưng rất thẩm mỹ.
 
Đức Ngài chờ đã lâu, muốn gọi chú tiểu đồng, nhưng e phiền chú, nên lại thôi. Giữa lúc Đức Ngài mong mỏi, bỗng cánh cửa từ từ mở ra, trước mặt có một hành lang dài hun hút, thăm thẳm. Ở cuối hành lang, thấp thoáng bóng một ông già mặc áo xanh đi lại. Ông cao lớn, râu tóc bạc phơ, áo màu xanh, tay rộng chuyển động theo làn gió qua lại nhẹ nhàng, đầu đội mão hơi giống
 
"Thúc phát" của đạo sĩ mầu xanh, dáng uy nghi đường bệ. Ông già thân mật đưa mắt hiền hậu âu yếm nhìn Ngài suốt từ đầu đến chân. Niềm hân hoan từ đâu bỗng chan chứa trong lòng. Ngài say nhìn vẻ đẹp siêu phàm của ông già, ông giống hệt ông già đi với nhà sư mà Ngài đã gặp trong tiệm thuốc bắc dạo nào, chỉ có cách phục sức là khác. Ông đi thẳng lại chiếc ghế bành lớn trung tâm, ung dung ngồi xuống khoan thai, tự tại, hai tay đặt lên thành ghế, đầu hơi ngửa về phía sau, trông thật oai nghiêm, nhưng không kém hiền từ.
 
Trong lúc Đức Ngài còn ngây ngất, chăm chú nhìn từng nét mặt, từng điệu bộ, từng cử chỉ, và từng chi tiết trong cách phục sức của ông già, bỗng ông già lên tiếng:
 
- Con ngồi đi.
 
Đức Ngài vâng lệnh, ngồi xuống cái ghế gần nhất. Nhưng ông già chỉ vào chiếc ghế đầu, sát bên tay mặt mà bảo:
 
- Con ngồi sang ghế này.
 
Thoạt tiên ông già hỏi thăm Đức Ngài về gia đình, về bà thân sinh của Ngài, rồi đến anh Hai, anh Ba, chị Tư, cho đến hết cả mọi người trong nhà. Chỉ có ông thân sinh của Ngài đã mất sớm, ông già không hỏi tới. Ngài lấy làm lạ sao ông già hiểu rõ gia đình nhà của Đức Ngài như thế.
 
Ông Già lại chỉ rõ từng nét xấu, từng tính tốt của mỗi người anh em Ngài; sau hết khuyên nhủ Ngài về đường tu thân giữ sao cho vẹn đạo đức, và tỏ ý đặt nhiều hy vọng vào Ngài trên con đường Đạo.
Đức Ngài ngồi lặng yên kính cẩn, chân thành lắng nghe những lời khuyên nhũ. Ông già lộ vẽ hài lòng, nụ cười tươi nở trên mặt đạo mạo; ông gọi tiểu đồng:
 
- Con đem bánh cho anh con ăn.
 
Tiếng ông già kêu vừa dứt, còn âm vang trong phòng thì cửa đã mở. Tiểu đồng mang vào đặt trước mặt Ngài một dĩa bạc lớn trên đựng đầy bánh còn nóng hổi, khói bốc lên thơm lịm ngọt như thấm sâu vào người, gây cảm giác dễ chịu, thích thú.
 
Ông già thúc giục:
 
- Con ăn đi!
 
Đức Ngài ngắm nghía mâu cổ bồng bằng vật liệu đồng, đầy bánh bột lọc hình tròn. Chiếc bánh nào cũng hai màu, nửa đỏ, nửa trắng, xếp theo hình nón, Đức Ngài đưa tay nhắc lấy chiếc bánh trên chóp dĩa, bẻ đôi đưa lên miệng, ăn rất hợp khẩu vị, vì đi qua mấy quãng đường dài, bụng đang đói ngấu. Hàng bánh thứ hai có ba chiếc. Đức Ngài lấy ăn thêm một chiếc nữa, bụng đã đỡ đói. Còn đương nghĩ không biết có nên ăn thêm nữa hay không, thì ông già hình như biết ý thúc giục:
 
- Con ăn nữa đi.
 
Đức Ngài vâng lời, nhắc đến cái bánh thứ ba, bẻ đôi, ăn xong phần nhân, thấy bụng no, ngán quá, không sao ăn thêm được nữa. Ngài mới vò hai miếng vỏ bánh ném xuống gầm bàn.
 
Biết Ngài đã no, ông già gọi Tiểu đồng lấy nước. Tiểu đồng mang lên một tô lớn bằng vàng, nước đầy mười phân.
 
Đi đứng nhiều, chờ lâu thấm mệt, đã ăn hết hai (2) chiếc rưỡi bánh, Ngài cảm thấy khát quá, uống một hơi hết sạch tô nước. Đức Ngài uống đến đâu, ruột mát đến đó.
 
Đợi Ngài ăn uống xong, ông Già trầm ngâm thong thả nói:
 
- Hôm nay, con ăn hai cái bánh rưỡi, và uống một tô nước. Những thứ đó sẽ ám hợp vào cuộc đời hành đạo của con sau này.
 
Đến đây ông Già, như ý không muốn để Đức Ngài có nhiều thì giờ hỏi cặn kẽ, liền truyền lệnh cho tiểu đồng:
 
- Con đưa anh con về.
 
Ngài chắp tay vái chào ông Già, rồi theo chân tiểu đồng đi ra. Sực nhớ đến con Kim Mao Hẩu, Đức Ngài quay lại xin ông Già con vật đó. Ông Già gật bầu bảo: 
 
Thôi, con cứ về đi, sau này nó sẽ xuống với con.
 
Trở ra, đến chỗ con Kim Mao Hẩu, tiểu đồng trèo lên chân trước leo lên lưng, rồi đứng trên mông nó, thì cửa cũng vừa mở ra, Tiểu đồng bước ra ngoài cửa. Cửa sau lưng Tiểu đồng khép lại cũng không còn thấy con Kim Mao Hẩu hiền lành. Ngài bước lên lưng, leo lên mông nó, thì cửa vừa mở. Nhưng bóng dáng tiểu đồng đã biến mất. Ngài nhìn xung quanh, lo lắng, không có Tiểu đồng hướng dẫn lối, không biết đi đường nào. Đức Ngài kêu lớn:
 
- Em ơi!
 
Không thấy có tiếng đáp lại, Đức Ngài liền kêu ba tiếng nữa, mới thấy bụi bông lồng đèn trước mắt gió thổi phát âm khua động nhẹ, và cành lá mỏng chạm nhau lay động như những sợi nắng lung linh. Chủ Tiểu đồng nhảy ra quát:
 
- Anh làm cái chi mà lớn tiếng vậy?
 
Đức Ngài phân trần:
 
- Qua không thấy em, tưởng em đi đâu, mới phải gọi đấy chứ.
 
- Thôi tôi biết rồi, anh đã bị lạc, bây giờ lại sợ bị lạc nữa chứ gì. Anh lại đây, tôi đeo cho cái này.
Đức Ngài nhìn thấy chú bé đeo ở cổ và mỗi bên tai một vòng hoa, còn hai tay mang hai vòng nữa, giơ lên, đòi đeo vào hai tai cho Đức Ngài.
 
Không muốn làm phật lòng chú bé, Đức Ngài đành phải cúi xuống cho hắn đeo hai vòng hoa tủng lẳng vào tai. Chú bé thích chí phì cười:
 
- Thôi bây giờ anh theo tôi.
 
Cả hai người đồng rảo bước chân một lát, thì tòa lâu đài tám mặt hiện ra trước mắt. Chú bé hướng dẫn Đức Ngài đến một cửa, rồi chỉ hai vết chân in trên bậc:
 
- Này anh Tắc, chỗ cửa anh đến còn vết chân anh đây, anh có thấy không?
 
Chú bé đổi giọng hắn khuyên Đức Ngài một cách rất dễ thương:
 
- Lần sau; anh có đi đâu phải chú ý nhé.
 
Nhìn kỹ theo tay chú bé chỉ, Đức Ngài thấy hai vết chân mình còn in rành rành ở đó. Đức Ngài chưa kịp trả lời, chú bé đã tiếp:
 
- Từ đây anh nhớ lối rồi, cứ theo đường cũ mà trở về.
 
- Em về cả với qua cho vui.
 
- Bây giờ chưa thể được, anh ạ. Nhưng sau này, thầy sẽ cho phép em xuống với anh. Thôi anh về đi, không có ở nhà mong.
 
Sực nhớ mình đã đi chơi lâu, chắc ở nhà chờ đợi lắm. Đức Ngài nói vài lời từ biệt Chú Tiểu đồng, đôi chân nhẹ bước theo đường cũ về nhà. Đi rảo một lúc, quay lại vẫn còn thấy bóng Tiểu đồng. Đức Ngài lấy sức cố gắng chạy thật nhanh, vô ý vấp phải một mô đất, té lộn mèo một vòng đau quá.
 
Đức Ngài giật mình tỉnh dậy, văng vẳng nghe thấy tiếng kêu khóc bên tai, vội mở choàng mắt ra, thấy chung quanh tấp nập những kẻ thì kéo tóc, người thì giật tay, lay chân, gọi tên Ngài ầm ĩ.
 
Ngài gượng ngồi dậy. Trong lúc mơ màng, Ngài hỏi người nhà:
 
- Con chó của tôi đâu?
 
Thì ra Đức Ngài còn nhớ con Kim Mao Hẩu mà Ngài đã hỏi xin ông Già siêu phàm trong giấc mơ kỳ lạ.
 
Không có mô tả ảnh.
Con Kim Mao Hẩu. 
 
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thiếp ngủ dài lâu, trải qua một đêm, một ngày (24 giờ). Một phép sinh, hành tàng Thiên tính cho muôn đời sau rực rỡ. Từ đó nhân loại chuẩn bị tiếp nhận một Ðấng vĩ nhân nhập thế, qua nguyên căn thông công với Thiên giới. Ngày nay những Ðức tin Ðông Phương, Thông Linh Học, và Khoa học Tây Phương đồng chứng minh điều thiếp ngủ của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là phép "thông công" mang tính thông điệp, và tiên tri của Ðấng Tối Thượng đến thế gian, chuẩn bị Khai Ðạo qua diệu pháp Cơ Bút Thiêng Liêng.
 
Biên khảo: Hiền Tài Huỳnh Tâm.
Trích dẫn
Người bắt đầu chủ đề Đã đăng : 19/07/2021 3:35 am
Chia sẻ: